Sáng ngày 26 tháng 07 năm 2017, Chi ủy chi bộ trường học Trà Don đã đặt vòng hoa và viếng hương tri ân các anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang huyện Nam Trà My nhân ngày thương binh liệt sĩ (27/07/1947-27/7/2017). Dẫn đầu đoàn viếng hương có Ông Võ Đăng Chín, đảng ủy viên, bí thư chi bộ trường học, Ông Nguyễn Hồng Thương, Phó bí thư chi bộ, bà Trần Thị Minh Tâm, phó hiệu trưởng trường Mẫu Giáo Sơn Ca.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” và được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau (chiến tranh, hòa bình ở nửa đất nước, đất nước thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới), nhưng đúng như mục tiêu đề ra ban đầu, mỗi năm đến “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” ngày 27 tháng 7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình người có công với cách mạng, thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và cuộc sống yên bình của nhân dân mà hy sinh, cống hiến.
Năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi "Ngày Thương binh toàn quốc" thành "Ngày Thương binh - Liệt sĩ" để thể hiện đầy đủ tình cảm, đạo lý, nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta và các thế hệ người Việt Nam đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.
Ngày Thương binh - Liệt sĩ đã đi vào lịch sử đất nước ta là ngày lễ lớn, hội tụ đầy đủ ý nghĩa chính trị, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa" của dân tộc ta, nhân dân ta. Tổ chức các hoạt động kỷ niệm là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục ghi nhận, tôn vinh các liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
Trong những năm qua, Chi ủy chi bộ nhà trường đã phát động sâu rộng trong toàn thể CB-GV-NV và học sinh thực hiện tốt việc “Đền ơn đáp nghĩa” chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, điển hình như các phong trào: Thăm tặng quà các gia đình thương binh, gia đình có công, mẹ Việt Nam anh hùng…Đây là những việc làm có ý nghĩa thiết thực, nhằm động viên, khích lệ kịp thời các đối tượng chính sách, tạo điều kiện để họ tiếp tục cống hiến sức lực của mình cho xã hội như lời Bác Hồ đã từng dạy “Thương binh tàn nhưng không phế”.
Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 7/7/2017) là dịp để chúng ta luôn dành những tình cảm thiêng liêng nhất để tưởng nhớ, biết ơn những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh xương máu của mình vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, để cho mỗi chúng ta có được cuộc sống thanh bình và hạnh phúc ngày hôm nay. Một số hình ảnh:
Ảnh, tin bài: Đăng Chín
Nghị lực của cậu học trò Ca Dong
;
Sinh ra trong một gia đình nghèo, cha qua đời sau tai nạn sạt lở đất núi, gia cảnh khó khăn nhưng cậu học trò người Ca Dong vẫn băng rừng, lội suối đi học để nuôi dưỡng ước mơ giúp ích cho đời. Đó là em Hồ Minh Đức trú tại thôn 3, xã Trà Don, huyện Nam Trà My.
Hồ Minh Đức đang ở TP.Đà Nẵng học tiếng Nga để chuẩn bị hành trang cho con đường du học tại Nga. Ảnh: Như Trang |
Vượt qua nghịch cảnh
Đức mồ côi cha từ lúc em mới 9 tuổi, là anh cả trong nhà có bốn anh em, từ nhỏ Đức sớm ý thức trách nhiệm và bổn phận của mình đối với gia đình. Em nghĩ phải có tri thức thì mới đổi thay số phận được, vì thế, em chẳng bao giờ quản ngại đường xa để đến lớp học. Từ những ngày còn là học sinh tiểu học, một mình Đức lặn lội quãng đường rừng dài hơn 2 cây số từ nhà đến trường. Có hôm mẹ của Đức bận việc trên nương rẫy, sợ vắng buổi học sẽ không theo kịp các bạn, Đức vừa địu em trên lưng đến trường. Căn nhà tềnh toàng nằm ven sườn núi, dù thiếu thốn trăm bề, nhưng mẹ của Đức vẫn dành riêng cho em chiếc bàn làm bằng nứa. Chỉ tay về phía góc học tập cũ kỹ, mẹ em - bà Lê Thị Nguyệt, tự hào nói: “Vì khổ cực quá nên tôi cũng tính chuyện cho thằng bé ở nhà. Đâu ngờ nó ham học mà cũng sáng dạ, học đâu biết đó, được thầy cô khen thưởng. Thấy thế, tôi cũng mừng và cố gắng cho con đi học”.
Thầy Võ Đăng Chín - Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Trà Don cho biết: “Từ những ngày mới đi học, Hồ Minh Đức đã để lại ấn tượng trong lòng các thầy cô giảng dạy. Đức không chỉ học đều các môn học mà còn vẽ tranh rất đẹp, khả năng đàn hát trở thành thế mạnh và giúp em trở thành gương mặt nổi trội trong mọi hoạt động do nhà trường tổ chức”. Với bảng thành tích học sinh giỏi 9 năm liền, năm 2014 Đức được thầy Chín và một số thầy giáo làm việc tại Phòng GD&ĐT huyện Nam Trà My làm hồ sơ xét học bổng Vừ A Dính. Ngay sau đó, Đức được đặc cách tuyển thẳng vào Trường THPT Quốc Văn TP.HCM. Nói về việc này, Đức chia sẻ: “Các thầy cô ở Nam Trà My đã chắp cánh ước mơ cho em. Không chỉ giúp em nhận học bổng rồi xét chọn tuyển thẳng vào một trường học tốt, hằng tháng các thầy còn chung góp gửi thêm tiền cho em ăn học ở Sài Gòn. Các thầy chính là những người cha thứ hai trong đời em, suốt đời em không bao giờ quên được công ơn ấy!”.
Chắp cánh ước mơ
Xa núi rừng và bản làng, Hồ Minh Đức vào TP.HCM thực hiện ước mơ của em. Càng nhớ nhà, nhớ mẹ và các em, Đức càng tự nhủ phải ra sức học tập thật giỏi để không phụ lòng mong mỏi của mọi người. Đồng thời Đức cũng muốn cho đồng bào Ca Dong thấy được lợi ích của việc học, từ đó các bậc phụ huynh sẽ như mẹ của em có cách nhìn mới về cuộc sống có tri thức. Một lần nữa, nghị lực và sự bản lĩnh, cùng tài năng hiếu học của em làm cho thầy cô, bạn bè Trường THPT Quốc Văn phải thán phục. Ba năm theo học tại trường cũng là ngần ấy năm em đạt thành tích học sinh giỏi, kết quả rèn luyện của em ở mỗi học kỳ đều xếp loại xuất sắc. Hẳn vì thế mà khi vừa học hết lớp 12, Đức vinh dự được nhà trường xét chọn trao học bổng toàn phần đi du học 5 năm ở Nga với chuyên ngành Vật lý kỹ thuật của Trường Đại học Kỹ thuật quốc gia Moskva Bauman.
Niềm vui nhận học bổng du học Nga và kết thúc 3 năm học tại Trường THPT Quốc Văn vẫn không làm cho cậu học trò Ca Dong xao nhãng việc học. Đức tìm đến trung tâm giảng dạy tiếng Nga tại Đà Nẵng để học. Đức nói: “Thầy Chín đã giúp em kết nối với một nhà hảo tâm và xin tá túc ở đây để học tiếng Nga. Ngay từ bây giờ em sẽ ra sức học cách giao tiếp cơ bản, có thế em mới tự tin hòa nhập với cuộc sống ở Nga”. Đức cũng cho hay, em ấp ủ ước mơ trở thành một nhà nghiên cứu để mai này trở về giúp ích cho đất nước. Và dù có phiêu dạt đến những chân trời nào, Đức cũng sẽ không bao giờ quên những nẻo đường rừng hay từng con suối, càng không quên tiếng nói của đồng bào Ca Dong ở miền núi Nam Trà My…
NHƯ TRANG
Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) mới và lộ trình triển khai thưc hiện chương trình
I. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CHƯƠNG TRÌNH
Chương trình GDPT mới được xây dựng theo định hướng tiếp cận năng lực (NL), phù hợp với xu hướng phát triển chương trình của các nước tiên tiến, nhằm thực hiện yêu cầu của Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội "tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh".
Định hướng tiếp cận NL của chương trình thể hiện ở những điểm sau:
1. Chương trình được xây dựng theo phương pháp phù hợp với định hướng tiếp cận năng lực.
Khác với chương trình theo định hướng tiếp cận nội dung (thiên về truyền thụ kiến thức), quy trình xây dựng chương trình theo định hướng tiếp cận NL không bắt đầu bằng việc xác định nội dung dạy học mà bằng việc xác định những yêu cầu cần đạt về phẩm chất, NL của học sinh (HS), tức là chuẩn đầu ra của chương trình. Căn cứ chuẩn đầu ra, chương trình mới xác định các lĩnh vực giáo dục, các môn học và hoạt động giáo dục (HĐGD), phương pháp giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục phù hợp.
Trong giáo dục, phương pháp xây dựng chương trình như trên được gọi là phương pháp sơ đồ ngược (back-mapping).
2. Chương trình đã xác định được các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi cần hình thành, phát triển cho HS.
2.1. Chương trình GDPT mới xác định mục tiêu hình thành, phát triển cho HS các phẩm chất chủ yếu sau: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm.
Căn cứ để xác định các phẩm chất chủ yếu nói trên là những đức tính của người Việt Nam được nêu ra trong các nghị quyết của Đảng CSVN về xây dựng văn hoá, con người Việt Nam, đặc biệt là Năm điều Bác Hồ dạy HS và yêu cầu giáo dục đạo đức, lối sống cho HS hiện nay.
2.2. Chương trình GDPT hình thành, phát triển cho HS các NL cốt lõi sau:
a) Những năng lực chung được tất cả các môn học và HĐGD góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
b) Những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
Các NL nói trên là những NL mà ai cũng cần có để sống, làm việc trong xã hội hiện đại. Các NL đó đã được xác định trong nhiều chương trình và tài liệu giáo dục nước ngoài, đặc biệt là các tài liệu Xác định và lựa chọn các năng lực cốt lõi của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) năm 2005, Các năng lực cốt lõi để học tập suốt đời – Khung tham chiếu châu Âu của EU (Liên minh Châu Âu) năm 2006 và Tầm nhìn mới về giáo dục – Mở khóa tiềm năng về công nghệ của WEF (Diễn đàn Kinh tế Thế giới) năm 2015.
Bên cạnh việc hình thành, phát triển các NL cốt lõi, chương trình GDPT còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu) của HS.
3. Chương trình thiết kế nội dung và kế hoạch giáo dục phù hợp với định hướng tiếp cận năng lực.
3.1. Chương trình GDPT mới mang tính mở, bảo đảm quyền lựa chọn của HS, quyền chủ động sắp xếp kế hoạch giáo dục của cơ sở.
Hệ thống các môn học của chương trình giáo dục phổ thông được chia thành các môn học bắt buộc, môn học bắt buộc có phân hóa, môn học tự chọn và môn học tự chọn bắt buộc.
Môn học bắt buộc là môn học mà mọi HS đều phải học. Môn học bắt buộc có phân hóa là môn học mà nội dung được thiết kế thành các chủ đề hoặc học phần (môđun), trong đó một số chủ đề hoặc học phần là bắt buộc đối với tất cả HS, một số chủ đề hoặc học phần được tự chọn tùy theo nguyện vọng của HS và điều kiện đáp ứng của cơ sở giáo dục. Môn học tự chọn là môn học không băt buộc, được HS tự nguyện lựa chọn, phù hợp với nguyện vọng, sở trường và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Môn học tự chọn bắt buộc là môn học mà HS bắt buộc phải lựa chọn trong số các môn học định hướng nghề nghiệp ở lớp 11, lớp 12 theo quy định của chương trình.
Chương trình GDPT ở cả ba cấp học được thực hiện trong thời gian tương đương 37 tuần, gồm: 35 tuần thực học dành cho các môn học bắt buộc, môn học bắt buộc có phân hoá và môn học tự chọn bắt buộc; 2 tuần thực học dành cho các môn học tự chọn và nội dung giáo dục của địa phương.
Chương trình chỉ quy định thời lượng học (số tiết) dành cho mỗi môn học hoặc HĐGD trong một năm. Việc phân bổ thời lượng học từng tuần do cơ sở giáo dục quyết định phù hợp với điều kiện thực tế.
3.2. Chương trình thực hiện giáo dục toàn diện và tích hợp ở Tiểu học, THCS; giáo dục phân hóa và tự chọn ở THPT.
3.2.1. Ở cấp tiểu học và cấp THCS
Cấp tiểu học có 8 môn học bắt buộc, 5 môn học và HĐGD bắt buộc có phân hóa và 1 môn học tự chọn.
Cấp THCS có 6 môn học bắt buộc, 5 môn học và HĐGD bắt buộc có phân hóa và 2 môn học tự chọn.
Về thời lượng giáo dục, theo số liệu của OECD (The Learning Environment and Organisation of Schools, 2009), trong độ tuổi từ 7 đến 15, tương đương từ lớp 1 đến lớp 9, trung bình mỗi HS ở các nước thuộc OECD học 7.390 giờ (60 phút/giờ). Còn theo dự thảo chương trình tổng thể của Việt Nam, từ lớp 1 đến lớp 9, mỗi HS học nhiều nhất 6.957 giờ, kể cả thời gian tự học dành cho HS tiểu học và thời gian học các môn tự chọn.
3.2.2. Ở cấp THPT
Theo dự thảo chương trình tổng thể, lớp 10 có 13 môn học và 2 HĐGD; lớp 11 và lớp 12 có 9 môn học và HĐGD.
Trong các môn học và HĐGD, môn Giáo dục thể chất được tổ chức dưới hình thức câu lạc bộ thể thao tự chọn; Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, môn Giáo dục quốc phòng và an ninh chủ yếu là thực hành, luyện tập. Thực chất, chỉ có 6 môn có lý thuyết và thực hành là Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ và 3 môn định hướng nghề nghiệp tự chọn.
So sánh với chương trình nước ngoài, có thể thấy: chương trình tú tài quốc tế (IB), chương trình của Vương quốc Anh có 6 môn học bắt buộc; chương trình Australia, Đức, Pháp có từ 5 đến 6 môn bắt buộc; chương trình của Mỹ có 4 môn bắt buộc toàn quốc và một số môn bắt buộc khác tùy theo từng bang; chương trình Malaysia bắt buộc học 10 môn; chương trình Trung Quốc có 12 môn bắt buộc hoặc tự chọn có giới hạn,...
4. Chương trình áp dụng phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục giáo dục phù hợp với định hướng tiếp cận năng lực.
4.1. Các môn học và HĐGD trong nhà trường áp dụng các phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho HS, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích HS tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được để phát triển.
Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập và hoạt động thực hành (ứng dụng những điều đã học để phát hiện và giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống), được thực hiện với sự hỗ trợ của đồ dùng học tập và công cụ khác, đặc biệt là công cụ tin học và các hệ thống tự động hóa của kỹ thuật số.
Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường thông qua một số hình thức chủ yếu sau: học lý thuyết; thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu; tham gia xêmina, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ cộng đồng.
Tùy theo mục tiêu cụ thể và mức độ phức tạp của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Tuy nhiên, dù làm việc độc lập, theo nhóm hay theo đơn vị lớp, mỗi học sinh đều phải được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.
4.2. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập.
Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp.
Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức. Học sinh hoàn thành các môn học, tích lũy đủ kết quả đánh giá theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo được cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông. Học sinh hoàn thành chương trình Tiếng dân tộc thiểu số được cấp Chứng chỉ Tiếng dân tộc thiểu số theo quy định.
Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chứcđể phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục.
II. LỘ TRÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH GDPT MỚI
1. Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội quy định: "Từ năm học 2018 - 2019, bắt đầu triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới theo hình thức cuốn chiếu đối với mỗi cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông." Theo quy định này thì đến năm học 2022 – 2023, chương trình GDPT mới sẽ được áp dụng cho toàn bộ 12 lớp phổ thông.
2. Tiếp thu ý kiến của nhiều chuyên gia, cán bộ giáo dục, giáo viên và người dân, để bảo đảm triển khai thành công chương trình GDPT mới, Ban Phát triển chương trình GDPT đã kiến nghị Bộ thực hiện lộ trình triển khai như sau
Trước năm học 2018 -2019 tiến hành thực nghiệm ở Lớp 1
Năm học 2018-2019 thực nghiệp ở Lớp 2 và lớp 6; bắt đầu áp dụng ở lớp 1.
Năm học 2019-2020 thực nghiệm ở Lớp 3, lớp 7 và lớp 10; áp dụng ở Lớp 2 và lớp 6.
Năm học 2020-2021 thực nghiệm ở Lớp 4, lớp 8 và lớp 11; áp dụng ở Lớp 3, lớp 7 và lớp 10.
Năm học 2021-2022 thực nghiệm ở Lớp 5, lớp 9 và lớp 12; áp dụng ở Lớp 4, lớp 8 và lớp 11.
Năm học 2022-2023 áp dụng ở Lớp 5, lớp 9 và lớp 12.
Nguồn tin: http://quangnam.edu.vn
Hưởng ứng Ngày Sách Việt Nam 21/4 Lần thứ 4; Ngày Sách và Bản quyền Thế giới – 23/4, và Kỷ niệm 42 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/04/1975-30/4/2017), Thư viện trường PTDTBT THCS Trà Don phối hợp Ban HĐNGLL, đội cộng tác viên thư viện… tổ chức ngày Hội đọc sách năm 2017 với chủ đề “Sách - sự giao thoa văn hóa” Đền dự có Ông Võ Đăng Chín, BT chi bộ, hiệu trưởng nhà trường cùng tất cả các thầy cô giáo cùng 202 em học sinh của trường PTDTBT THCS Trà Don
Đến với Ngày Hội sách, bạn đọc đã giao lưu, gặp gỡ, trao đổi, cán bộ thư viện, những công tác viên thư viện, Ngày hội sách tại trường PTDTBT THCS Trà Don chính thức khai mạc 7 giờ 15 phút sáng 17/4.
Thư viện trường PTDTBT THCS Trà Don được xây dựng từ năm 2011 đến nay được Sở GD&ĐT Quảng Nam công nhận thư viện đạt chuẩn. Sau 6 năm xây dựng, triển khai xây dựng thành công thư viện đạt chuẩn, Đây là lần thứ 3 thư viện trường tổ chức ngày hội sách đây là một hoạt động kiểu mẫu, góp phần tích cực cổ vũ việc đọc sách trong trường học. Với nhiều đổi mới về nội dung, hình thức và chất lượng hoạt động, ngày hội sách tiếp tục khẳng định những giá trị to lớn của việc đọc sách, tôn vinh tác giả, tác phẩm, nghề xuất bản, in, phát hành, thư viện, nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò quan trọng của việc đọc sách, thực thi và bảo hộ quyền tác giả, vai trò của thư viện - môi trường học tập suốt đời trong cộng đồng.
Một số hình ảnh Ngày Hội đọc sách 21/4.
Ảnh, tin bài: Đăng Chín
Ảnh, tin bài; Đăng Chín
Trang 2 trong tổng số 30
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ TRƯỜNG PTDTBT - THCS TRÀ DON
Địa chỉ: thôn 2, xã Trà Don, huyện Nam Trà My, Tỉnh Quảng Nam. Tel: 05106.506.669.